Chùa Chính An - 8.2018
Lúc 13 tuổi tôi cùng gia
đình rời làng vào Huế giữa năm 1965. Đây là lần đi không hẹn ngày trở lại vì ở thôn
quê tính từ năm 1963, cuộc chiến Quốc Cộng
ngày càng lan rộng, bom đạn đã lấy đi không biết bao nhiêu sinh mạng con người cho
đến ngày Miền Nam mất vào tháng 4.1975.
Nay đã hơn nửa thế kỷ
trôi qua, dù có phôi pha nhưng trong ký ức tôi
vẫn còn nhớ đôi điều về thời thơ ấu. Từ căn nhà, sân trước vườn sau cho đến hồ
ao, thửa ruộng, đàn gà và chim muông dường như thường thấy khắp nơi trên những con
đường làng quanh co thôn xóm, trên lối về bến chợ hay chuyến đò xuôi dòng ra
phá Tam Giang. Rồi còn nữa, mái trường của mấy năm bậc tiểu học và ngôi chùa Làng,
nơi mà thuở xưa lúc tuổi chưa đến 10, đã được theo mẹ lên chùa lễ Phật. Đây
cũng là ngôi chùa duy nhất của xã Phong Lộc thời đó nằm trên hương lộ chính nối
liền các thôn xã gần xa trong quận huyện. Phong Lộc là tên gọi có từ xưa trước khi tôi ra đời, nhưng
sau 1975 chính quyền mới đổi thành xã Phong
Chương gồm có 9 thôn (làng): Năm thôn cũ trước 1975 là Mỹ Phú, Chính An, Trung Thạnh,
Đại Phú và Lương Mai. Bốn thôn mới là: Bàu, Ma Nê, Nhất Phong và Phú Lộc.
Một hai năm đầu trở lại
Huế, là nơi tôi chào đời đã làm tôi vui thích. Vết thương chia cắt quê nhà như
đã lành lặn khi có nhiều dịp cùng bạn học viếng thăm đền đài lăng tẩm và nhiều
ngôi chùa cổ kính ở Huế thì lòng như được khuây khỏa khi nhớ về ngôi chùa Làng quê giờ đây trong ký ức và chẳng biết lúc nào mới được về thăm nguyên quán.
Bước sang năm thứ ba ở Huế
thì Tết Mậu Thân, một mùa xuân tang chế cho người dân Cố Đô. Gia đình tôi cũng
bị ảnh hưởng vì cháy nhà nhưng vẫn còn
may mắn hơn nhiều người khác. Cha mẹ tôi giờ đây chỉ
còn hai bàn tay trắng, để một lần nữa làm lại cuộc đời cùng đàn con tuy chưa khôn
lớn, nhưng có vẻ ngày càng lanh lợi hơn khi chạy giặc tránh bom đạn.
Bốn năm sau, lúc các con ăn chưa no lo chưa tới thì Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 một lần nữa ập đến kinh hoàng. Dân
chúng từ tỉnh địa đầu giới tuyến cho đến Thừa Thiên Huế tháo chạy khi Cổ
thành Quảng Trị thất thủ, ai nấy đều bỏ nhà cửa bồng bế nhau tìm đường thoát
thân. Gần như đồng bào ở Huế chỉ có một con đường sống duy nhất là chạy vào Đà
Nẵng, đều chung cảnh ăn nhờ ở đậu, lo lắng, bất an khi cuộc chiến đã đến hồi khốc liệt. Báo chí Sài Gòn ngập tin tức về những trận
đánh một sống một còn của đôi bên. Lệnh Tổng động viên như lời cảnh báo xã tắc
lâm nguy, là trai thời loạn phải gánh vác sơn hà. Nhưng tôi không nằm chung với
số bạn bè cùng lớp lên đường nhập ngũ vì còn đủ tuổi học tiếp. Hai năm sau đó
vào mùa hè 1974, chúng tôi là những người bạn đồng khóa ít ỏi còn lại nhận bằng
tốt nghiệp, trong lúc các bạn theo đường binh nghiệp, thì nay đã là Sĩ Quan Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa, mang trọng trách Vì nước Vì dân trong thời ly loạn.
Để tiếp tục việc học, tôi
cùng một số bạn vào Sài Gòn cuối năm 1974. Mấy tháng ở thành đô hoa lệ lo nơi
ăn chốn ở, ghi danh trường lớp, chưa quen thầy bạn thì những tháng đầu
năm 1975 tin tức chiến sự dồn dập
mỗi giờ, như
thời khắc cảnh báo sự sống của người bệnh chỉ đếm từng giây: Sài Gòn ra đi nhẹ
nhàng. Di chúc không kịp viết. Giấy báo tử đã có sẵn lúc 8 giờ sáng, ngày 30
tháng 4.1975.
Trước ngày Sài Gòn sụp đổ
gần hai tháng, tôi đã là thiện nguyện viên của một Tổ chức Từ thiện Phật giáo,
được chuyển qua công tác cứu trợ trước tình hình mới, nên đã quen với những chuyến đi xa trong vai trò điều
nghiên thực tế để lập dự án cứu trợ khi Đồng bào Nạn nhân Chiến cuộc dừng chân
trước cửa ngõ Sài Gòn ngày càng đông. Nhờ vậy mà trên những chặng đường lưu lại
ở Tây Ninh, Long Khánh, Vũng Tàu nên đã biết thêm trên quê hương mình có rất nhiều
ngôi chùa đẹp và khang trang, gợi nhớ những gì đã đi thăm ở Huế và mái chùa Làng
đến nay đã đúng mười năm chưa trở lại. Đây cũng là một trong những lý do thôi
thúc người xa nhà dự tính cho một ngày về thăm quê cũ.
Phải đến lần thứ ba về Huế,
tôi mới được cùng gia đình trong chuyến về thăm quê vào mùa xuân 1977. Không có
gì bất ngờ hơn khi thời gian cách biệt thôn làng chỉ trên mười năm mà đổi thay
khủng khiếp. Chính mẹ tôi cũng ngỡ ngàng trước sự xa lạ đến nỗi không tìm ra con
đường về nhà cũ vì sự hoang tàn đổ nát vẫn còn rõ nét qua từng hố bom chưa lấp,
dấu đạn chưa nhòa và thôn xóm xơ xác như chưa bao giờ có bàn tay ai khâu vá những
vết tích tang thương của chiến tranh. Khu vườn nhà tôi đã có chủ mới, còn mái Chùa xưa mà chúng tôi mong muốn tìm kiếm thì nay chỉ còn lại một đống gạch ngói
ngổn ngang vô chủ.
Hơn hai mươi năm sau, được
sự đóng góp tài lực của dân làng cùng bà con Phật tử thôn Chính An với một thời
gian dài chuẩn bị, vào năm 1998 ngôi chùa mới được xây dựng lại trên nền đất cũ.
Nhưng phải đến năm 2017, gia đình Phật tử mới báo tin vui khi có Thầy về nhận chức vụ Trụ Trì chùa Chính An, cũng là chỗ dựa tinh
thần của Phật tử gần xa, mang lại sự an lạc cho mọi người. Giữ gìn và phát triển
từ bi hỷ xả, thăng hoa đời sống tâm linh và Phụng Sự Tam Bảo.
Một ngày trong tháng 8.2018
tôi và người em trai từ Huế về thăm làng. Lần nào cũng vậy, dừng chân ở nhà bà
con thăm hỏi đôi câu, uống tách trà rồi đi bộ vào vùng cát trắng có nhiều hoa rừng
và cỏ dại, ngang qua hồ Trằm Sen ngắm cảnh trời mây sông nước, cũng là nơi ghi
dấu kỷ niệm vào năm 1965, mẹ đã cùng các con bỏ làng đi qua đây giữa đêm khuya
để vào Huế, trước khi đến thăm và thắp hương khu Lăng mộ Tổ tiên Ông bà không
xa.
Nắng đã lên cao, anh em
chúng tôi trở về theo lối cũ qua ngõ Trằm Sen để ra đường chính. Từ nơi đây khách
phương xa còn hai điểm đến nữa là viếng thăm ngôi nhà Thờ họ Nguyễn và chùa Chính An trên cùng một con đường.
Nhìn lá cờ ngũ sắc bay cao trước sân Chùa cạnh tượng đài Đức Quán Thế Âm nhân từ,
những ngày tháng cũ bên mẹ hiền dưới mái chùa xưa như thoáng hiện về. Biết nói cùng
ai nỗi mừng vui đã mấy mươi năm xa vắng
mong chờ !
NGUYỄN SĨ LONG
Tháng 4.2020