Samstag, 18. Januar 2020

NGÀY XUÂN ĐỌC THƯ CON


    Mấy mươi năm trước, hai cô con gái nhà tôi hẹn nhau cùng chào đời vào cuối tháng giêng dương lịch, chỉ cách nhau đúng một tuần lễ, đến nay đã trên dưới bốn thập niên. Năm nay sinh nhật hai chị em đều rơi vào hai ngày thứ bảy trong tuần cuối cùng của tháng 12 Âm lịch, Tết Canh Tý.
    Cuối tháng 5.1987 tôi để vợ và hai con ở Sài Gòn rồi về miền Tây đi vượt biên ở bến Ninh Kiều, Cần Thơ. Được tàu Cap Anamur vớt trên Biển Đông và sau đó nhập trại Tỵ nạn Palawan, Philippines vào đầu tháng 6.1987. Trại Palawan không những đẹp với phong cảnh hữu tình, nên biết bao thuyền nhân đã phải thao thức canh thâu với tiếng sóng rì rào mà còn nổi tiếng thoải mái, no đủ và sinh hoạt tự do nhất Đông Nam Á, được phép ra phố chơi đêm phải về trại trước 12 giờ khuya. Nếu có điều kiện, trại viên có thể ra ngoài mướn nhà dân ở, gần trại. Sau một năm rưỡi đợi chờ, tôi được đi định cư vào giữa tháng 12.1988, nơi đến là Salzburg, Áo.
    Ở trại Tỵ Nạn không ai biết trước được ngày về hay gặp lại người thân nên chỉ trông mong vào thư tín như là gạch nối với gia đình bè bạn, để được hỗ trợ về tinh thần cũng như vật chất trong thời gian đợi chờ. Vì vậy đã không thiếu những trường hợp cười ra nước mắt của đồng bào Tỵ Nạn, không phân biệt tuổi tác hay quê quán. Mọi người dường như ai cũng mong chờ và nô nức trong những lúc ban Thư tín phát thư mỗi tuần hai lần. Người có thư vui cũng khóc, người không có thư cũng rưng rưng nước mắt. Đó là một trong những nét sinh hoạt vui buồn của trại, như là kỷ niệm khó quên khi nhớ đến câu nói được truyền miệng ai cũng biết: ‘nhất định cư nhì thư tín’.
    Trong lần dọn nhà về Wien mấy tháng cuối năm 2019 vừa qua, tôi đã mất khá nhiều thời gian để chọn lọc những gì nên mang theo hay bỏ bớt cho ‘nhẹ gánh giang hồ’ trên chặng đường còn lại của một đời người. Trong số những gì mang theo có khoảng 170 lá thư (trên ba trăm trang giấy) được viết từ trại Tỵ Nạn Palawan, Philipines và của vợ cùng hai con viết từ Sài Gòn trong thời gian từ tháng 7.1987 đến cuối năm 1990.
    Nhân dịp sinh nhật của hai cô con gái trong dịp Tết sắp đến, nay đã khôn lớn và trưởng thành, giờ nhìn lại những dòng chữ thơ ngây mộc mạc của con trong nỗi nhớ thương người cha xa nhà đã trên ba mươi năm nhưng vẫn làm người đọc bồi hồi xúc động.

THƯ BÉ TY

Sài Gòn 13/10/89*
kính thăm ba thương nhất của con !
hôm nay luôn tiện mẹ gởi thư cho ba, con vội viết vài hàng hầu kính thăm ba. Dạo này sức khỏe của ba như thế nào ? còn phần mẹ, chị như và con vẫn bình thường.
ba thương ! con đã nhập học được 1 tháng rồi, con được làm lớp trưởng, ba thấy con gái của ba có giỏi không, tháng này con chưa xếp hạng nên con chưa biết con đứng thứ mấy, khi nào có hạng con sẽ viết thư cho ba biết.
ba thương ! hôm trước ba gởi hình về con thấy mẹ coi hình mẹ khóc con không biết chuyện gì hết, con chỉ biết khóc theo mẹ thôi. ba thương mẹ, thương chị như và con thì ba đừng làm cho mẹ buồn nhe ba.
thôi con ngừng bút chúc ba vui vẻ và gặp nhiều may mắn.
con gái của ba
bé ti
*thư này bé ti không viết chữ hoa khi xuống hàng, ngoại trừ hai chữ Sài gòn. Năm này bé ti 6 tuổi.


Sài Gòn 14/05/1990*
Kính thăm Ba thương nhớ
Đã lâu lắm rồi con không viết thư thăm ba. Lá thư này con xin viết vài dòng để hầu thăm sức khỏe của Ba.
Ba ơi ! ở đây sức khỏe mọi người đều tốt. Chú Kì, chú Ti vẫn đi làm đều. Cô Hon bây giờ đã nghỉ học may và nhận may thêm đồ của người ta gởi. Mẹ thì vẫn săn sóc chúng con rất tốt. Con và chị hai rất khỏe mạnh, vẫn đi học bình thường. Chị hai thi học kì được hạng 1 và đang ôn tập để chuẩn bị thi chuyển cấp lên lớp 6. Con thì học kì chưa có hạng nhưng môn toán và môn tập đọc đạt điểm 10, chính tả được điểm 8 ba thấy con giỏi chưa ?
Vậy ba ở bên đó có khỏe không ? việc làm của ba có tốt đẹp không ? Giấy tờ bảo lãnh đã làm xong chưa ba và chừng nào gởi về đây. Con mong giấy tờ bảo lãnh được về nhanh để gia đình sớm được đoàn tụ.
Cuối thư, con xin kính chúc ba và các cô chú được dồi dào sức khỏe làm ăn phát tài.
Con của Ba
Ti
TB : Nếu Ba có gởi đồ về thì cho con xin đồ chơi điện tử 
 *thư này Ti viết khá hơn trước, xuống hàng có viết hoa

  Mai Trâm, Kiều Nam, Chân Như (1987)

THƯ CHÂN NHƯ

Sài Gòn 26.06.87
Ba thương nhớ !
Sáng hôm nay mẹ và con đang nằm buồn nhớ ba, thì anh Uyên mang thư đến, mẹ và hai con rất mừng và đều khóc. Không biết bao giờ chúng con mới được gặp lại Ba để được ba chở chúng con đi chơi đây đó. Ba đi rồi mẹ càng thương chúng con nhiều hơn và săn sóc chúng con rất chu đáo chẳng thiếu gì. Ba đừng lo gì cả, hãy cố gắng giữ gìn sức khỏe. Có lẽ đầu tháng này cô Phượng sẽ đến nhà dạy con học thêm, con sẽ cố gắng học thật giỏi để khỏi phụ lòng Ba mong muốn.
Ba thương của con, lúc nào con cũng nhớ Ba, nhất là bữa cơm cứ nhìn vào chỗ ngồi của Ba là mẹ lại khóc, lúc ấy con rất thương mẹ và lại nhớ Ba nhiều, ước gì có phép nhiệm màu để ba về lại với mẹ và chúng con, bé Ti rất tội nghiệp suốt ngày cứ hỏi ba hoài, nó nói ‘Ba đi công tác gì mà lâu quá, kỳ này Ba về em không cho ba đi nữa đâu’. Nghe em nói thật tội nghiệp nó còn quá nhỏ nên chưa biết gì cả.
Ba thương ! nhận được điện của Ba gởi về, chú Ty đã đánh điện tín cho ông Nội rồi, chắc ông bà Nội mừng lắm.
Bây giờ con chẳng biết nói gì nữa, cho con dừng bút vì đã kể cho Ba nghe hết rồi, thư sau con sẽ viết nhiều hơn.
Con
CHÂN NHƯ
TB: Chú Ty đã mang bồ* về đã được một tháng, chúng rất dễ thương suốt ngày ở trong chuồng chứ không bay ra 
*hàng đầu tiên của ba câu trên Chân Như viết thiếu chữ ‘câu’. Viết đủ là ‘chú Ty đã mang bồ câu về đã được một tháng…’ (nếu chú Ty mang bồ về mà nhốt trong...chuồng thì...chết !) 
 
Sài Gòn 25/09/87
Kính thăm Ba thương nhớ !
Nhận được thư ba (có hình) cách đây 5 ngày, con đã viết cho Ba một lá, thư mẹ đã gởi đi sáng nay. Chiều nay mẹ lại nhận thêm một lá nữa, nhận được thư ba con rất vui, khi đọc thư con thấy Ba viết rất hay và cảm động lắm.
Ba ơi ! từ ngày Ba đi tới giờ con và em nhớ Ba lắm, có những đêm con nằm con khóc vì nhớ thương Ba.
Còn bé Ti từ hôm em bệnh nó rất nhõng nhẽo và đòi ăn hàng suốt ngày. Lúc nào hai con cũng nhớ thương Ba thật nhiều, nghe Ba sẽ gởi kẹo bánh về bé Ti khoái quá cứ cười hoài.
Còn việc học tập con hứa với Ba sẽ cố gắng đạt điểm cao để cho Ba mẹ khỏi buồn lòng. Con làm văn được 8 điểm, toán 10 điểm, chính tả 10 điểm được cô khen giỏi nhất lớp.
Mẹ vẫn đi làm thường và lo cho hai con đầy đủ, thư này con viết một mình chứ chẳng ai chỉ cả. Con viết có dở Ba đừng chê nhé.
Cuối thư con kính chúc Ba sức khỏe và gặp nhiều may mắn.
Con của Ba 

Sài Gòn 27/11/87
Kính thăm ba thương nhớ !
    Con rất mừng là vì Ba đã nhận được hình. Mà khoái nhất là được Ba khen hình nào cũng đẹp. Tháng mười con được đứng hạng 1, con mừng lắm ba ơi, lúc cô đang ghi hạng con hồi hộp sợ đứng hạng 2 không biết nói sao với ba mẹ.
    Con được mẹ thưởng một cây bút máy, chú Ti thưởng 500 đồng bỏ ống heo, cô Bảo thưởng một ly cà phê sữa đá, dì Út thưởng 100 đồng bỏ ống heo, bé Ti thưởng cho con một đôi bông tai thật đẹp. Ở nhà con vẫn uống thuốc đều. Hai trứng bồ câu đã nở, một con rớt xuống đất bị mèo ăn còn một con lẻ bạn nên cũng chết luôn. Hiện nay nó đã đẻ thêm hai trứng đang ấp.
    Còn bé Ty bữa nay siêng học và hát rất hay nhưng vẫn còn nhõng nhẽo và đeo mẹ suốt ngày. Bữa nay mẹ làm rất đông khách nên mẹ mừng lắm. Tội nghiệp mẹ lắm ba ơi, buổi trưa buồn ngủ mà vẫn ráng đi làm, nhìn cảnh đó con thấy thương mẹ nhiều hơn.
    Ba thương ! Con nhớ Ba vô cùng lúc nào con cũng nghĩ tới Ba, mong sao sớm gặp lại Ba là con vô cùng sung sướng.
    Thôi cho con xin dừng bút hẹn Ba thư sau con viết dài hơn nữa. Chúc Ba sức khỏe dồi dào và  được đi sớm, con chỉ cầu mong điều đó thôi. Hôn Ba.
Con
CHÂN NHƯ

     Chỉ còn một tuần lễ nữa là mùa xuân lại trở về. Thân mến chúc bạn bè cùng bạn đọc xa gần, một năm mới Canh Tý An Khang và Thịnh Vượng. 

NSL, 18.01.2020

CHÙM ẢNH SINH NHẬT KIỀU NAM




Samstag, 11. Januar 2020

XÓT THƯƠNG ĐỜI MẸ

  
Huế 1966

Mẹ ơi con hứa xuân sau sẽ về
Dù cho dù cho xuân đã đi qua
Dù cho én từng bầy bay về ngàn
Dẫu gì rồi con cũng về
Chỉ bên mẹ là mùa xuân thôi...
(Mùa xuân của mẹ, Trịnh Lâm Ngân) 

    Biết bao mùa xuân xa gia đình đã đi qua đời tôi khi rời quê nhà tính đến nay vừa 33 năm tròn, nhưng xa mẹ xa Huế thì đã 46 năm  kể từ khi vào Sài Gòn cuối thu 1974 để tiếp tục việc học. Tuy vậy, do không ở thường bên mẹ để ôn lại những ngày xưa cũ nên tôi vẫn thương tiếc dòng thời gian sẽ không bao giờ trở lại khi sức khỏe mẹ ngày càng yếu với tuổi đời khi đã bước qua 90.
    Mỗi lần nhớ mẹ nhớ nhà hay có lúc bất chợt nhớ lại những điều mà mẹ kể từ hàng chục năm trước cho đến những năm gần đây mỗi khi tôi về thăm nhà là lòng tôi như quặn thắt xót thương cho đời mẹ gặp quá nhiều khổ đau về những gì đã xảy ra trên bảy mươi năm trước. Đó là thuở tôi chưa mở mắt chào đời.
    Mẹ tôi sinh vào tháng 1 năm 1930 tại làng Hiền Sĩ, xã Phong An, quận Phong Điền, cũng là quận quê nội tôi ở làng Chính An, xã Phong Lộc. Năm 1946 lúc 16 tuổi, mẹ được Ôn mệ ngoại cho vào học hộ sinh ở Bệnh viện Trung Ương Huế, tức chưa tròn một năm sau khi Nhật lật đổ chính quyền đô hộ Pháp ngày 09.03.1945. Vài tháng sau đó Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15.08, rồi đến việc Bảo Đại thoái vị ngày 25.08.1945 trước áp lực Việt Minh giành chính quyền ở Hà Nội vào ngày 19.08.1945. Đầu tháng 9.1945 ở Huế tình hình rối ren và phức tạp khi quân Nhật chờ quân Đồng Minh đến giải giới còn có quân của Tưởng Giới Thạch và sau đó quân Pháp trở lại Huế khi quân Tưởng Giới Thạch rút đi. Bên cạnh đó cuộc Tổng khởi nghĩa của Việt Minh tuy thắng lợi nhưng khi quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn ngày 23.09.1945 như là lời cảnh báo thực dân Pháp sẽ quay trở lại Việt Nam và cuộc Kháng chiến của Việt Minh chắc vẫn còn lâu dài. Trong số những người thoát ly theo Phong trào Kháng chiến thời ấy, thì gia đình mẹ tôi ở Hiền Sĩ có hai người anh trai đều đã lập gia đình tham gia, địa bàn hoạt động là nhiều làng xã thuộc huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, Huế.
    Đến năm 1947 vỡ mặt trận nên mẹ ở lại Huế làm hộ sinh cho vợ lính vợ Tây vài tháng rồi trở về làng, cùng năm với quân Pháp và Bảo Vệ mở chiến dịch càn quét vùng chiếm đóng bờ bắc sông Bồ, mà làng Hiền Sĩ thiệt hại rất nặng về sinh mạng. Mẹ may mắn thoát chết, năm đó mười bảy tuổi.
    Đến năm 1949, người anh lớn sinh năm 1916 liên lạc đưa mẹ ra phụ trách hộ sinh xã Phong Lộc. Đi chưa tới đất cát Phong Lai thì gặp vợ chồng người dì bà con đang trên đường đi trốn vì trong làng Tây lùng. Theo dì đến Cửa Việt nhưng Tây bắn dữ quá nên quay lại, lên chiến khu Hòa Mỹ ở khoảng hai mươi ngày rồi trở về xã Phong Lộc, ở tại làng Trung Thạnh làm hộ sinh cho xã. Đây cũng là thời gian ba tôi làm Thông tin ở huyện Phong Điền nên đã gặp mẹ trong những lần đi kịch ở Bến Chợ. Được biết ba tôi chơi đàn Mandolin khá giỏi và mẹ tôi ngâm thơ rất hay, có lẽ nhờ vậy mà ‘đôi trẻ’ như tâm đầu ý hợp nên duyên vợ chồng trong một lễ cưới vô cùng đặc biệt trăm năm có một, vì từ khi khôn lớn cho tới bây giờ tôi chưa nghe ai nói hôn lễ lại tổ chức vào ban đêm. Nhưng đây là một câu chuyện có thật về lễ Thành hôn của ba mẹ tôi ở quê nội làng Chính An vào cuối năm 1950. Cô dâu không mặc áo cưới, chỉ ca hát văn nghệ giúp vui với số người tham dự hạn chế. Mệ ngoại ở Hiền Sĩ không ra được, nhưng có anh trai và chị kế của mẹ thay mặt. Ôn nội tôi cho làm heo và người cô tặng một chiếc nhẫn, đó là tất cả trong một đêm vui của ba mẹ từ thế kỷ trước. Sau này lớn lên tôi mới hiểu là lịch sử lặp lại một lần nữa khi nhà Ngô sụp đổ năm 1963, thì những năm sau đó lúc tôi đã trên mười tuổi, cũng đã biết là du kích về làng mạc hoạt động thường là ban đêm, thỉnh thoảng cũng có những trận đánh giữa ban ngày của hai phe Quốc - Cộng. Đó là những năm tháng quê tôi luôn có bom đạn rình rập và thôn xóm bất an kéo dài cho đến 1975.
    Qua năm 1951 mẹ tôi đang ở làng ngoại thì bị Bảo Vệ bắt và đưa vô Huế giam, nhờ khai có nghề y tá hộ sinh nên mẹ không bị đánh đập, tra khảo hay vào nhà tù. Mẹ được hai ông quan lớn đối xử tử tế trong thời gian giúp việc cho vợ quan khi ông vắng nhà. Có thể nhờ vậy nên được thả sau hai tháng gần như giam lỏng mà không có một tội danh nào về mặt giấy tờ. Cuối năm đó mẹ trở lại Huế một lần nữa với người chị kế, ở nhà bà con khoảng một tuần là đến ngày chuyển bụng. Vì là con so nên mẹ đã trải qua lần sinh nở khó khăn lúc tôi chào đời ở Nhà Bảo sanh Bác sĩ Mori người Pháp trên đường Huỳnh Thúc Kháng, gần cầu Gia Hội, Huế.


    Mẹ và dì ở lại nhà bảo sanh mười ngày rồi thuê xe xích lô về làng ngoại Hiền Sĩ. Hai mẹ con được mệ và dì chăm sóc tám tháng trước khi về làng nội Chính An, và đây cũng là lần đầu tiên cha con gặp nhau sau ngày tôi chào đời ở Huế. Đến năm 1952 ba tôi bị sốt nặng nên ở làng dưỡng bệnh và làm ruộng. Mẹ tiếp tục làm hộ sinh trong xã Phong Lộc cho đến ngày ký Hiệp định Geneve 1954.
    Trong lúc ở làng đang thay đổi chính quyền thì ba tôi vào Huế xin việc, làm bán hàng cho hiệu Đức Sinh ở trên đường Trần Hưng Đạo. Năm 1955 ba ra bán ở thị trấn Đông Hà, vừa học nhiếp ảnh ở hiệu Quang Vinh. Trong thời gian này hai mẹ con chúng tôi có ra Đông Hà nhưng không nhớ là ở được bao lâu. Đến năm 1960 trở về làng Chính An, ba tôi làm ruộng và chụp ảnh, đồng thời mở một tiệm hình bên chợ Đại Lộc, Hương Điền.
    Nhưng những ngày tháng thanh bình không được bền lâu. Đến năm 1965 mẹ bỏ trốn làng ra đi, dẫn một đàn con bồng bế nhau chạy tìm đất sống ở Huế. Rồi Tết Mậu Thân 1968 mang chiến tranh lửa đạn vào thành phố cũng không tha căn nhà mới xây dựng, ở được ba tháng rồi chỉ trong phút giây thành tro bụi. Nỗi buồn khổ của mẹ dường như không còn đủ nước mắt để xóa nhòa dĩ vãng cùng những bất hạnh mà mẹ đã âm thầm chịu đựng từ thời thôn nữ tuổi học trò cho tới bây giờ.
    Mẹ tôi là út trong gia đình có sáu người con, hai trai và bốn gái. Ôn ngoại tôi sinh năm 1885, làm trưởng họ. Ngay ở làng Hiền Sĩ ngoại có hai khu vườn rộng đầy cây trái xanh tươi như tuổi thanh xuân cô con gái út được Ôn mệ một mực cưng chiều, cho lên thành phố Huế học ngành Hộ Sinh nhưng không may đã sớm mồ côi cha lúc mười bảy tuổi, Ôn bị Tây bắn ở làng Thanh Tân trong một cuộc truy lùng những gia đình có con tham gia Kháng chiến vào năm 1947, năm đó Ôn 62 tuổi. Lúc tang gia còn bối rối, nước mắt chưa kịp lau khô thì một đại nạn lại ập xuống kinh hoàng. Người chị thứ tư sinh năm 1922 cùng hai con sinh đôi và người vú nuôi cũng bị Tây bắn cùng năm ở làng Thanh Tân. Có nỗi đau đớn và thương tâm nào hơn lúc hai cháu sinh đôi thì chính mẹ là bà mụ, khi vừa tốt nghiệp nghề hộ sinh mới được ba tháng. Không đầy một năm sau, người anh trai thứ ba sinh năm 1919, cán bộ Việt Minh, cũng không thoát được sự tàn bạo của quân Pháp. Cậu bị bắt và bị giết ở xóm Bù năm 1948.
    Chỉ trong vòng hai năm, gia đình Ngoại đã mất đi năm sinh mạng và người vú nuôi. Sau hiệp định Geneve 1954 thêm hai người con, một trai một gái tập kết ra Bắc, còn cô con Út lấy chồng phương xa nhưng cùng quận huyện đó là mẹ tôi, nên cuối cùng chỉ còn lại người chị đầu có ba con ở gần ngoại cho đến ngày gần đất xa trời năm 1974 vì bệnh đau tim. Mệ thì đến chín mươi tuổi vẫn còn làm được việc nhà rồi ra đi thanh thản vào năm 1979, hưởng thọ 91 tuổi.
    Hôm nay là Sinh Nhật 90 của Mẹ. Con xin chắp tay nguyện cầu Mẹ luôn được bình an, đón chờ những ngày xuân mang theo niềm hy vọng cho mọi người mọi nhà trong năm mới, sum họp và hạnh phúc. 
    Dẫu gì rồi con cũng về…chỉ bên Mẹ là mùa xuân thôi.

NGUYỄN SĨ LONG
Vienna, 11.01.2020